23/9/10

Biển sương mù

Thế rồi một ngày nọ Bastian đi tới một bãi biển kia. Thoạt tiên nó nghĩ như thế. Đó là một bãi biển toàn đá tảng dốc đứng. Trước mắt nó, biển trải rộng ra từ những con sóng trắng xóa đông cứng. Mãi sau nó mới nhận ra rằng những con sóng kia không thật bất động, chúng xê dịch rất chậm chạp, tạo ra thủy triều và những con nước xoáy, nhưng khó nhận thấy như sự chuyển động của chiếc kim giờ.

Đó chính là biển sương mù !

Bastian đi dọc theo bờ biển dốc đứng. Trời ấm, ẩm ướt và không một chút gió. Lúc ấy vẫn còn là sáng sớm, nắng chiếu trên lớp sương mù trắng như tuyết đến tận chân trời.

Bastian đi tới đi lui suốt mấy giờ đồng hồ như thế, đến gần trưa nó gặp một thị trần nhà sàn trên biển sương, cách đất liền khá xa. Một chiếc cầu treo dài bềnh bồng nối thành phố này với một mũi của bờ đá. Nó chao qua đảo lại khi Bastian bước trên đó.

Nhà cửa tương đối nhỏ. Cửa ra vào, cửa sổ, cầu thang như được làm cho trẻ con. Mà quả thật, những con người qua lại trên đường phố chỉ lớn như trẻ con, tuy họ toàn là những người đàn ông lớn tuổi râu ria rậm rạp hoặc đàn bà tóc búi cao. Đặc biệt là họ rất giống nhau khiến không phân biệt nổi. Mặt họ màu nâu sẫm như đất ướt, trông hiền lành và trầm lặng. Thấy Bastian họ chỉ gật đầu chứ không chào hỏi. Họ có vẻ rất ít nói, họa hoằn lắm mới nghe một tiếng gọi trên đường phố hay ngõ hẹp, dù sinh hoạt ở đây rất nhộn nhịp. Cũng không hề thấy ai đi một mình, bao giờ họ cũng đi từng nhóm lớn hay nhỏ, khoác hoặc nắm tay nhau.

Nhìn kĩ Bastian mới thấy nhà cửa của họ đều được đan lát cùng một kiểu, nhà này thô hơn, nhà nọ khéo hơn, thậm chí mặt đường cũng đan lát luôn. Sau hết nó thấy ngay đến cả y phục của họ: quần, váy, áo khoác, mũ cũng đều đan lát như thế cả, dĩ nhiên rất khéo và đầy thẩm mỹ. Xem ra ở đây người ta làm gì cũng đều với một chất liệu giống nhau.

Đây đó Bastian có dịp liếc vào những nơi làm việc khác nhau của các thợ thủ công; ai nấy mải miết với những món hàng đan lát: giầy dép, cốc vại, đèn, ly, tách, dù đi mưa ... thảy thảy đều bện. Mà không ai làm việc riêng một mình, vì tất cả những món này chỉ có thể do hợp tác mới thành được. Thật thú vị được thấy họ khéo léo tiếp tay nhau đến mức nào, việc người ngày luôn bổ sung cho việc của người kia. Thường thì họ vừa làm vừa ngân nga những giai điệu đơn giản không lời.

Thành phố không lớn lắm nến Bastian nhanh chóng ra tới vành đai. Cảnh tượng nó nhìn thấy tỏ rõ đây là một thành phố của những người đi biển vì có đến hàng trăm tàu thuyền đủ loại, đủ cỡ. Nhưng quả là một thành phố hơi khác thường của những người đi biển, vì mọi tàu bè, chiếc này cạnh chiếc kia, đều móc vào những chiếc cần câu khổng lồ, lơ lửng đung đưa trên mặt biển sâu mà khối sương mù trắng dầy đặc kéo qua. Ngoài ra các tàu bè này hình như cũng đều được đan lát cả, không buồm, không cột buồm, không mái chèo và bánh lái.

Bastian cúi người qua thanh chắn nhìn biển sương mù. Qua bóng những chiếc cọc đỡ thành phố này được nắng chiếu trên màn sương trắng, Bastian có thể đoán được những cọc ấy cao mức nào

- Đêm đêm, nó nghe thấy tiếng người nói bên canh, sương mù dâng cao ngang thành phố. Bấy giờ chúng tôi có thể ra khơi được. Còn ban ngày mặt trời xé toang màn sướng khiến mặt biển xuống thấp. Đó là điều một khách lạ như anh muốn biết, chứ gì ?

Ba người đàn ống đứng tựa vào những thanh chắn cạnh Bastian hiền lành và thân mật nhìn nó. Nó bắt chuyện với họ và được biết thành phố này tến là Yskal hay còn gọi là " Thành phố Đan lát" . Cư dân ở đây gọi là người Yskalari, đại khái có nghĩa là "những người trong cộng đồng". Ba người này làm nghề đi biển sương mù. Bastian muốn giấu tên để khỏi bị nhận ra, nên bịa rằng nó tên là Một. Ba thủy thủ kia bảo rằng họ không có tên riêng, không cần thiết. Họ đều là người Yskalari, theo họ thế cũng đủ.

Lúc ấy đúng giờ ăn trưa nên họ mời Bastian đi với họ. Bastian cám ơn và nhận lời. Trong lúc cùng nhau ngồi dùng bữa tại một quán ăn gần đó, Bastian được biết mọi điều về Yskal và cư dân của thành phố này.

Biển sương mù kia, mà họ gọi là Skaidan, là một đại dương sương mù bao la ngăn đôi vương quốc Tưởng Tượng. Biển Skaidan sâu cỡ nào, cũng như khối sương mù mênh mông kia từ đâu mà ra thì chưa có ai tìm hiểu. Tất nhiên người ta vẫn hoàn toàn thở được dưới mặt biển, từ bờ, nơi sương mù tương đối mỏng, người ta vẫn có thể đi được một đoạn ngắn trên đáy biển, nhưng phải buộc dây để được kéo vào, vì sương mù này có đặc tính là trong một khoảng thời gian rất ngắn nó khiến người ta mất hết khả năng xác định phương hướng. Nhiều kẻ, hoặc ngông cuồng hoặc khinh suất, đã bỏ mạng chỉ vì một mình đi bộ qua Skaidan. Chỉ có một số ít được cứu thoát. Cách của người Yskalari là phương cách duy nhất qua được bờ bên kia của biển sương mù.

Ấy là bởi vì mọi thứ đan lát của họ - từ đó làm nên nhà cửa, mọi vật dụng, áo quần, cho đến thuyền bè - đều làm từ một loại cói mọc gần bờ, dưới mặt biển sương mù. Qua những gì vừa nói thì dễ thấy rằng việc cắt thứ cói này là chuyện mạo hiểm tới tính mạng. Thứ cói này tuy rất dẻo, thậm chí mềm nhũn trong không khí bình thường, nhưng trong sương mù nó lại mọc thẳng băng, vì nó nhẹ hơn sương mù nên nổi trên đó. Chính vì thế mà thuyền bè làm bắng cói cũng nổi trên làn sương. Áo quần của người Yskalari do đó đồng thời là một loại phao cấp cứu, phòng khi ngã xuống biển sương.

Nhưng đó chưa phải là điều bí mật nhất của người Yskalari và chưa cắt nghĩa được lí do của tính tập thể độc đáo bao trùm mọi hoạt động của họ. Bastian sớm nhận thấy hình như họ không hề biết đến cái từ "tôi", ít ra nó không hề nghe thấy họ dùng từ này, mà chỉ toàn nói "chúng tôi". Lý do tại sao thì mãi sau này nó mới tìm ra.

Khi Bastian biết được, qua lời trò chuyện của ba thủy thủ, rằng họ sẽ ra khơi tối hôm ấy, nó liền hỏi họ có chịu thu nhận nó làm thằng nhỏ giúp việc trên tàu không. Họ mới cho nó biết rằng đi biển Skaidan khác nhiều đi trên những biển khác, vì không biết sẽ đi bao lâu và cập bến nơi nào. Bastian đáp như thế thật đúng ý nó và họ bằng lòng cho nó đi theo.

Khi màn đêm buông xuống thì sương mù dâng lên như chờ đợi. Gần nửa đêm thì cao mấp mé nền thành phố Đan lát. Bấy giờ mọi thuyền bè - trước đây lơ lửng trong không khí - bồng bềnh trên mặt sương trắng. Chiếc tàu có Bastian - một xà lan phẳng, dài khoảng 30 mét - được gỡ thừng cột, liền từ từ trôi ra xa biển sương mù trong đêm tối.

Thoạt nhìn Bastian đã tự hỏi loài tàu này trôi đi nhờ sức đẩy nào, vì tàu không có buồm, mái chèo hay chân vịt. Buồm, người ta giải thích, chẳng ăn thua gì vì trên Skaidan hầu như luôn lặng gió, mái chèo hay chân vịt lại càng không dùng được trên sương mù. Sức đẩy thuyền là một sức khác hẳn.

Chính giữa sàn thuyền có một cái bệ tròn, hơi nhô cao. Bastian đã trông thấy ngay từ đầu, song ngỡ là một đài chỉ huy hay gì đó tương tự. Suốt chuyến đi thường xuyên có 2 thủy thủ, có khi 3 hay 4 hoặc nhiều hơn nữa đứng trên đó ( trên tàu có cả thảy 14 người - không kể Bastian ). Những người trên bệ này bá vai nhau, ngó về hướng tàu đi. Thoạt trông cứ tưởng họ đứng bất động,. Nhìn kĩ mới thấy họ lắc lư rất chậm chạp và đồng bộ trong một điệu múa. Họ vừa múa vừa lặp đi lặp lại một khúc nhạc đơn giản rất du dương.

Mới đầu Bastian cho rằng hành động lạ lùng này là một nghi thức hay tập tục lạ nào đó mà nó không hiểu ý nghĩa. Mãi đến ngày thứ 3 của chuyến đi nó mới hỏi 1 trong 3 thủy thủ quen đang ngồi cạnh. Người này tỏ vẻ sửng sốt trước sự ngạc nhiên của Bastian, mới giải thích rằng họ làm như thế để dùng sức tưởng tượng của họ đẩy tàu đi.

Thoạt tiên Bastian chịu không hiểu nổi, liền hỏi có phải họ khởi động bằng cách nào đó những bánh xe ẩn kín đâu đấy.

- Không, người đi biển sương mù này đáp, khi cậu muốn cử động đôi chân thì chỉ cần tưởng tượng thôi cũng đủ hay cậu còn phải đạp chân trên hệ thống bánh xe nữa ?

Sự khác biệt giữa cơ thể con người và con tàu chỉ ở chỗ ít nhất 2 Yskalari phải nhập sức tưởng tượng của họ hoàn toàn thành một. Chỉ nhập được sức thì mới tạo ra được lực đẩy. Muốn đi nhanh hơn phải có nhiều người hợp lại. Bình thường họ làm việc mỗi ca 3 người, những người kia nghỉ ngơi. Vì trông thì nhẹ nhàng và thanh nhã nhưng đó là một việc nặng nhọc, đòi hỏi tập trung ghê gớm và liên tục. Đó là cách duy nhất để có thể di chuyển trên Skaidan.

Thế là Bastian liền theo những người thủy thủ học điều bí mật của tính tập thể của họ: điệu múa và bài hát không lời.

Rồi dần dần, trong chuyến vượt biển dài đằng đẵng này nó trở thành một người trong bọn họ. Thật sự là một cảm xúc độc đáo không diễn tả nổi của sự quên hết ngoại cảnh và hòa điệu Bastian cảm nhận được trong lúc múa hát, khi sức tưởng tượng của nó hòa với sức tưởng tượng của những người khác thành một sức chung. Nó thật sự đã được thu nhận vào tập thể của họ, gắn bó với họ. Đồng thời nó mất dần kí ức rằng trong cái thế giới của nó - từ đó nó tới đây và hiện đang tìm đường quay trở về - ai cũng có quan điểm và ý kiến riêng. Điều duy nhất nó còn nhớ mang máng là ngôi nhà của nó và bố mẹ nó.

Nhưng ở nơi sâu thẳm của trái tim nó vẫn còn một ước mơ khác đang chớm nhú, ngoài ước mơ hết bị lẻ loi.

Bastian lần đầu tiên để ý đến những người Yskalari đạt được điều chung nhất không phải vì họ hòa đồng những cách suy nghĩ vốn dĩ hoàn toàn khác nhau, mà vì họ giống hệt nhau, thành ra họ không cần cố gắng mà vẫn cảm thấy tính tập thể. Ngược lại họ hoàn toàn không có cơ hội để tranh cãi hay bất đồng, vì không ai trong bọn họ thấy mình là một cá nhân. Họ không phải vượt qua mâu thuẫn nào để có hòa đồng. Chính sự dễ dàng này khiến Bastian dần dần thấy là không ổn. Nó thấy tính hiền lành của họ chán ngắt, khúc nhạc muôn thủa của họ thật đơn điệu. Nó thấy thiếu gì đó, khao khát gì đó mà không thể diễn tả được.

Một ngày nọ Bastian vỡ lẽ ra điều mình khao khát ất. Số là hôm đó mọi người thấy một con quạ - sương - mù khổng lồ bay lượn trên bầu trời cao. các thủy thủ Yskalari hốt hoảng trốn thật lẹ dưới tấm bạt. Nhưng một người không trốn kịp bị con quái vật kia rít lên một tiếng, sà xuống đớp tha đi mất.

Khi tai họa đã qua, những người Yskalari chui ra, tiếp tục chuyến hải hành. Họ lại nhảy múa, ca hát như chẳng có chuyện gì xảy ra. Mối hòa đồng của họ không mảy may bị xáo trộn, họ không hề hay ngỏ lời thương xót kẻ bất hạnh nọ.

- Không, một người đáp khi Bastian hỏi, chúng tôi chẳng thấy mất mát gì cả. Chúng tôi phải than vãn nỗi gì chứ ?

Với họ một cá nhân không đáng kể. Và bởi vì họ chẳng có gì khác nhau, thành ra chẳng có ai là không thay thế được.

Nhưng Bastian lại muốn là một cá thể, là một kẻ nào đó chứ không chỉ là một trong muôn vàn. Nó muốn được yêu thương bởi chính nó là như thế. Trong cộng đồng Yskalari này có hòa đồng, nhưng không có tình thương.

Nó hết còn muốn làm kẻ vĩ đại nhất, khỏe nhất, khôn ngoan nhất nữa. Những chuyện ấy đã qua rồi. Nó khao khát được yêu thương như nó là, dù nó tốt hay không tốt, đẹp hay xấu, khôn ngoan hay đần độn, yêu thương với mọi khuyết điểm của nó, thậm chí chính vì những khuyết điểm ấy.

Mà nó là một kẻ như thế nào ?

Nó không biết nữa. Nó học được nhiều thứ ở vương quốc Tưởng Tượng, thành ra bây giờ tài năng đầy người mà không tìm lại được chính mình.

Từ hôm ấy nó không tham gia múa hát với đoàn thủy thủ nữa. Nó ngồi tuốt ở mũi tàu nhìn Skaidan suốt nhiều ngày, thậm chí suốt nhiều đêm.

Cuối cùng đã tới bờ bên kia. Con tàu chạy biển sương mù cập bến. Bastian cám ơn các thủy thủ Yskalari rồi lên bờ.

Đây là một vùng đất đầy hoa hồng, những rừng hoa hồng đủ màu sắc. Giữa rừng hoa hồng mênh mông là một con đường mòn uốn khúc.

Bastian đi theo con đường đó.

Trích Chương XXIII - Chuyện dài bất tận
Micheal Ende

"About all you can do in life is be who you are. some people will love you for you. Most will love you for what you can do for them, and some won't like you at all."

Rita Mae Brown

9/9/10

Chú Quay và ả Bóng

Một chú Quay và một ả Bóng cùng ở cạnh nhau trong một hộp đựng đồ chơi. Quay bảo Bóng:

- Chúng ta cùng phải sống suốt đời bên nhau sao lại không đính hôn với nhau nhỉ??

Nhưng cô ả Bóng , bọc bằng một loại da dê mịn và đẹp, nên kiêu kỳ chẳng kém gì một tiểu thư khuê các, không thèm trả lời. Ngày hôm sau ,cậu bé con có hộp đồ chơi đem Quay ra sơn vàng sơn đỏ, rồi trang điểm cho chú một chiếc đanh đồng mới tinh. Khi chú quay người chú loáng lên vì màu sắc rực rỡ.Quay bảo Bóng:

- Hãy ngắm tôi một tí nào! Giờ thì cô thấy tôi thế nào? Chúng ta đính hôn với nhau được chưa nhỉ? Chúng mình sinh ra thật xứng đôi vừa lứa. Cô nhảy, tôi quay, còn có cặp vợ chồng nào hạn phúc hơn chúng ta nữa kia chứ!

Bóng đáp:

- Úi chà, tưởng bở ! thế anh không biết cha, mẹ tôi đều là những đôi giày băng túp da dẻ tuyệt đẹp và người tôi bằng lie Tây Ban Nha hay sao?

Quay cãi:

- Hay lắm! nhưng cô nên biết rằng chính tôi cũng toàn bằng vàng tam đấy nhé! Người sinh ra tôi chẳng phải ai xa lạ , chính là ông thị trưởng thành phố, những khi nhàn rỗi, ông tiện chơi đủ các vật xinh đẹp và tôi là tác phẩm của ông ấy đấy.

Cô ả Bóng hơi dịu giọng một chút và hỏi:

- Anh nói thật đấy chứ?

Quay thề luôn:

- Tôi mà nói sai thì từ nay đừng có ai thèm đánh quay này nữa

- Anh quả là biết đề cao. Nhưng anh nên biết rằng việc này không thể được. Tôi gần như hứa hôn với một chàng chim Nhạn. Mỗi lần tôi bay lên không chàng lại thò đầu ra khỏi tổ mà tỏ tình, âu yếm. Trong thâm tâm tôi, tôi đã bằng lòng lấy chàng từ lâu rồi và chúng tôi đã gần như hứa hôn với nhau. Nhưng tôi rất quí trọng tấm tình của anh và xin hứa chẳng bao giờ quên anh đâu.

Quay buồn bã thở dài:

- Thế có lẽ cũng đã tốt rồi đấy, nhưng cũng chẳng đủ an ủi tôi đâu cô ạ!

Đó là những lời trao đổi cuối cùng của chúng. Ngày hôm sau cậu bé con lấy Bóng ra chơi và đập cho bóng nẩy lên không trung. Cô ả lao lên như một con chim. Quay thấy Bóng mất hút đi một lúc. Mỗi lần cô ả chạm đất là để nẩy lên cao, chẳng biết cô ả muốn nhảy lên tận cổ chàng nhạn hay chỉ vì tác dụng của chất lie. Nẩy đến cái thứ chín, ngang đường cô ả biến mất. Cậu bé con tìm đi tìm lại mãi chẳng thấy dấu vết của Bóng, cô ả đã mất tích.

Quay thở ra than rằng:

- Ta biết nàng đi đâu rồi, ở trong tổ chim nhạn chứ đâu nữa? chắc họ lấy nhau rồi còn gì?

Thế rồi càng nghĩ đến Bóng , Quay lại càng cảm thấy nhớ tiếc. Từ khi không gặp lại Bóng nữa, Quay ta lại càng cảm thấy yêu cô nàng hơn bao giờ hết. Bóng đã trở thành vợ kẻ khác, điều đó là Quay ta rất buồn bã. Tuy nhiên, Quay vẫn tiếp tục nhảy múa và réo vù vù. Nhưng chú luôn tưởng nhớ đến nàng Bóng và trong trí tưởng tượng của chú, cô ả ngày càng đẹp mê hồn hơn trước. Cái đó trở thành cái mà người ta gọi là mối tình xưa. Quay chẳng còn trẻ nữa, một hôm người ta đem chú ra sơn kín bằng kim nhủ để làm trò chơi cho đứa trẻ khác. Chưa bao giờ Quay lại bóng bấy như thế. Thật thích thú khi thấy chú ta quay lượn và lấp lánh như mặt trời con. Ôi chao, nếu lúc này mà Bóng nhìn thấy Quay thì phải biết . Bỗng Quay vấp phải hòn đá và nẩy bật ra xa. Chẳng ai biết mà chẳng ai trông thấy chú: chú ngất lịm đi và biến đâu mất. Người ta tìm Quay khắp chốn, tìm cả trong hầm rượu xem chú bị lọt mà rơi xuống hay không. Chẳng thấy gì cả.Thế thì Quay đi đâu? Rơi vào thùng rác hay giữa các đám bụi rậm, vỏ khoai, cuộng bắp cải và rác rưởi bẩn thỉu.

Quay tự hỏi:

- Thế là tong cái nước sơn kim nhủ óng ả của mình rồi đây sẽ ra sao nhỉ ? than ôi, xem nào, xem nào cái đám cặn bã nào vây quanh mình thế nhỉ?

Chú ngó quanh quẩn, thấy một cuộn rau diếp thối và một vật nhỏ tròn tròn trông giống một quả táo héo: đó là một quả bóng đã nhiều năm trong ống máng và giờ đây vẫn đẫm nước mưa. Chợt thấy chú Quay thép vàng, ả Bóng bằng nói ngay:

- Ơn trời, thế là cuối cùng cũng gặp người bằng vai phải lứa để mà chuyện trò. Anh cũng thấy đây, tôi bằng lie Tây Ban Nha bọc toàn bằng da dê và chính tiểu thư xinh đẹp đã khâu ra tôi đấy. Vâng, bây giờ thì chẳng ai tin , nhưng đúng là như vậy. Tôi sắp sửa lấy một chàng chim Nhạn thì bị bén ngay vào một vái máng nước và nằm chết dí ở đây năm năm nay! Than ôi, nước mưa làm tôi trương phình lên thế này! Nom mới xấu xí làm sao! Tôi cam đoan với anh rằng đó là nhục hình với một tiểu thư con nhà khêu các như tôi.

Quay lặng thinh, chú đang tưởng đến mối tình xưa và đoán ngay đây chính là người chú đã yêu say đắm hồi còn trẻ. Bỗng chị Sen đi tới, định đem thùng rác đổ đi. Chị reo lên:

-Ồ này! Con Quay vàng đây rồi! Chị cầm lấy và đem trả về cho trẻ con. Thế là Quay được sống lại cuộc đời vinh quang. Còn Bóng thì bị quẳng ra ngoài phố. Quay chẳng bao giờ nhắc mối tình xưa nữa khi cô ả trương phềnh vì nước mưa, nom rúm ró và gớm ghiếc, cu cậu đã lờ đi, không nhận cô ả nữa.